chăm sóc bà bầu chăm sóc sau sinh tai mobi army 2| tai mobi army 2| son xăm máy hút dịch |máy tạo oxy

15:58 ICT Thứ năm, 28/03/2024

Menu

Quảng cáo trái

Bo ngoai giao
vinades

Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở website ?

Văn bản

Hình ảnh

Tin tức

Tổ chức

Tất cả các ý kiến trên

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 18


Hôm nayHôm nay : 4397

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 264626

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 5114917

Trang nhất » Tin Tức » Tin tức

Giá trị của việc đầu tư vào công tác dân số: Sự đầu tư đúng đắn và khôn ngoan nhất

Thứ ba - 21/05/2019 08:40
Giá trị của việc đầu tư vào công tác dân số: Sự đầu tư đúng đắn và khôn ngoan nhất

Giá trị của việc đầu tư vào công tác dân số: Sự đầu tư đúng đắn và khôn ngoan nhất

Một trong những bài học thành công của công tác DS-KHHGĐ ở nước ta thời gian qua là tăng đầu tư kinh phí đồng thời thực hiện quản lý theo chương trình mục tiêu, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư. Trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, trong bối cảnh ngân sách Nhà nước còn eo hẹp, Chính phủ đã đầu tư cho công tác này bình quân 0,6 USD/người/năm. Thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, với mục tiêu, nội dung công tác dân số đã được mở rộng rất nhiều, quy mô dân số đã đạt đến gần 100 triệu người nhưng kinh phí đầu tư từ ngân sách Trung ương lại thu hẹp đáng kể, chỉ còn 40% so với mức đầu tư bình quân hàng năm trong giai đoạn 2011-2015. Đây là những khó khăn, thách thức rất lớn đối với công tác dân số trong tình hình mới
Mối quan hệ biện chứng của dân số và phát triển
Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực kinh tế thì chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển nhanh và bền vững của toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia. Dân số trong độ tuổi lao động chính là nguồn nhân lực, là lực lượng sản xuất chủ yếu tạo ra mọi của cải, các giá trị văn hóa và tinh thần của nhân loại, là yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển KT-XH.
PGS.TS Trần Văn Chiến, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ chia sẻ: Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy con người là vốn quý nhất. Trong mọi hình thái kinh tế -xã hội (KT-XH), dân số luôn là lực lượng sản xuất, lại vừa là người tiêu dùng. Chính vì vậy, cần sự đầu tư nguồn lực mạnh mẽ bởi dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực góp phần quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Đây cũng chính là bài học kinh nghiệm được nhiều quốc gia nhận thức và có những hành động cụ thể. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, hầu hết các nước đang phát triển có sự nhảy vọt về kinh tế trước đó đã thực hiện có kết quả cao về DS-KHHGĐ.
Các nhà kinh tế học đã thừa nhận, việc giảm sinh liên tục trong 3 thập kỷ đã góp phần quyết định vào tăng trưởng kinh tế của các con rồng châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Đài Loan. Các chuyên gia cũng cho rằng, phát triển kinh tế là “liều thuốc tránh thai” hiệu quả nhất của công tác dân số.
Có thể thấy rất rõ mối quan hệ biện chứng của dân số và phát triển qua bảng Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số ở Việt Nam từ 1976-2002 (NXB Thống kê, Tổng cục Thống kê): Tỷ lệ tăng dân số đã giảm rất nhanh và đạt mức 1,7% mỗi năm và do đó, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất trong 3 thập kỷ là 5,86% bình quân mỗi năm. Liên Hợp Quốc cũng đã dự báo rằng, nếu Việt Nam làm tốt chương trình DS-KHHGĐ quy mô dân số sẽ ổn định ở mức 120 triệu dân và đến năm 2035, GDP bình quân đầu người bằng 31,2 lần GDP bình quân đầu người năm 1990.
“Rõ ràng, mối quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển, trong đó con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực chủ yếu của quá trình phát triển đã trở thành cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện công tác dân số cũng như kế hoạch phát triển KT-XH của mọi quốc gia” – PGS.TS Trần Văn Chiến nhấn mạnh.
“Hãy ấn định nguồn ngân sách, vật chất, nhân lực tốt nhất cho Chương trình dân số”
Liên Hợp Quốc tính toán, nếu đầu tư 1 USD cho dân số thì chúng ta sẽ tiết kiệm được 31 USD cho các dịch vụ xã hội cơ bản. Điều đó cho thấy, giá trị của việc đầu tư đúng đắn vào công tác DS-KHHGĐ đã được thế giới đánh giá một cách khoa học, cơ bản.
Công tác dân số cũng đang đứng trước những thách thức của việc nâng cao chất lượng dân số; tận dụng cơ hội "dân số vàng", ứng phó với già hóa dân số, giảm tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh... GS.TS Đào Văn Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Các vấn đề xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương) cũng chỉ rõ thêm: Để làm tốt nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đòi hỏi hệ thống ngành Dân số phải củng cố ngày càng vững mạnh hơn. Ngành phải có chính sách thu hút để có nhiều người làm công tác DS-KHHGĐ tốt hơn, có trình độ, nhiệt huyết, có kỹ năng tuyên truyền vận động tốt hơn. “Chúng tôi đề nghị Nhà nước đầu tư xứng đáng hơn nữa để công tác DS-KHHGĐ đạt được mục tiêu đề ra - từ số lượng chuyển sang nâng cao chất lượng”, GS.TS Đào Văn Dũng nói.
Để công tác DS-KHHGĐ thực sự là “một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội”, rất cần sự quan tâm, đầu tư nguồn lực mạnh mẽ cho công tác này. TS Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từng nhấn mạnh: “Dân số là mẫu số của tất thảy các bài toán khác”.
Theo TS Bùi Ngọc Thanh, xét về nội dung của dân số thì đây là vấn đề chi phối toàn bộ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của một quốc gia. Còn chỉ nói riêng về kinh tế - xã hội thì dân số là bài toán tổng thể, "bài toán mẹ" của tất cả các bài toán chi tiết: cơ sở hạ tầng, nhà ở, đường sá giao thông; an ninh lương thực, thực phẩm; giáo dục, đào tạo; y tế, khám, chữa bệnh; lao động, việc làm; xóa đói, giảm nghèo; an sinh xã hội, cứu trợ xã hội...
Trong một chia sẻ với Báo Gia đình & Xã hội về đầu tư nguồn lực cho công tác DS-KHHGĐ, TS Bùi Ngọc Thanh khẳng định: Phải tăng mạnh nguồn lực, phải giữ và phát triển cho được đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác viên, cán bộ làm công tác dân số bằng và cao hơn so với thời gian còn mô hình tổ chức Ủy ban Dân số, Gia đình & Trẻ em; đồng thời phải củng cố bộ máy từ Trung ương đến địa phương và cơ sở đủ mạnh với điều kiện hoạt động tốt hơn, thuận lợi hơn. Nói cách khác, như khuyến cáo của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển Cai rô 1994: “Hãy ấn định nguồn ngân sách, vật chất, nhân lực tốt nhất cho Chương trình dân số”.
Trong những năm gần đây nguồn ngân sách bố trí cho công tác dân số ngày càng giảm sút. Khó khăn này cũng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các chương trình dân số, một số hoạt động bị ngắt quãng, không đạt chỉ tiêu đề ra. Đã đến lúc cần “Bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số…” mới có thể đạt được các mục tiêu mà Nghị quyết 21-NQ/TW đã đề ra.
Bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số
“Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số” – Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo về đầu tư nguồn lực cho công tác Dân số.
Thành công từ sự đầu tư sáng suốt, hiệu quả, đúng đắn
Theo PGS.TS Trần Văn Chiến - nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, nhận thức được tác động của gia tăng dân số nhanh ảnh hưởng tới phát triển KT-XH, ngay từ năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, mặc dầu trong lúc đất nước còn bị chia cắt làm hai miền, trong hoàn cảnh chiến tranh, ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định 216-CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn.
Ngày 14/1/1993, Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề “về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” (gọi tắt là Nghị quyết 04). Từ đây, công tác dân số ở nước ta đã có những thay đổi cơ bản, toàn diện, cả về nội dung, cách làm, huy động toàn hệ thống chính trị tham gia vào công tác DS-KHHGĐ; xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước thông qua Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ. Nhờ vậy, kết quả đạt được đều vượt xa mục tiêu đề ra, Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,86% (năm1991) xuống còn 1,36% (năm 2000), quy mô dân số từ 67,24 triệu dân tăng lên 77,64 triệu năm 2000, thấp hơn 4,36 triệu so với mục tiêu đã đề ra khoảng 82 triệu dân vào năm 2000. Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh đã được khống chế. Nhờ đó kinh tế ổn định và phát triển nhanh hơn.
Sau gần 60 năm thực hiện công tác dân số, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước. 58 năm qua, công tác dân số cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với bao khó khăn thử thách và tổng kết được những bài kinh nghiệm quý báu. Đặc biệt, giai đoạn 1991-2000 đã đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ, toàn diện với công tác DS-KHHGĐ nước ta. Năm 1991, lần đầu tiên ngành Dân số có bộ máy tổ chức chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở. Ủy ban Quốc gia DS-KHHGĐ trực thuộc Chính phủ, hệ thống Ủy ban DS-KHHGĐ cấp tỉnh và huyện thuộc UBND cấp tỉnh và huyện, tại cấp xã có Ban DS-KHHGĐ, có cán bộ chuyên trách và mạng lưới công tác viên DS-KHHGĐ tại tổ dân phố, thôn, bản… được hình thành. Với phương châm hoạt động: “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tuyên truyền, vận động và cung cấp các phương tiện tránh thai phi lâm sàng.
Thành công của công tác dân số trong giai đoạn này đã minh chứng cho sự lãnh đạo sáng suốt, tính đúng đắn và sự phù hợp với lòng dân về chính sách dân số của Đảng và Nhà nước ta.

Tác giả bài viết: Sưu tầm

Nguồn tin: Theo gia đình net

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

loa bmb

Lịch sử Việt Nam | Vách ngăn vệ sinh | Vách ngăn vệ sinh compact |